Chúng ta đều biết Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, đã từng là trong số ít nền kinh tế đạt được
thành tích tăng trưởng kinh tế đặc biệt xuất sắc sau khi chiến tranh tàn phá. Về nguyên tắc, để học hỏi và vận dụng kinh nghiệm phát triển
của các nền kinh tế đã phát triển nói chung, và của 3 nước trên nói riêng một
cách hiệu quả nhất, việc cần thiết trước tiên là tìm hiểu và nhận diện những điểm
tương đồng và khác biệt giữa hai nền kinh tế Việt Nam và 3 nước kể trên. Đây là
việc làm không dễ, bởi theo một nghĩa nào đó, các nền kinh tế riêng rẽ luôn là
những thực thể cá biệt, có lịch sử phát triển độc nhất vô nhị. Nhưng dẫu sao
thì những quy luật kinh tế chung vẫn đặt ra trước các nhà quản lý ở khắp mọi
nơi những yêu cầu mang tính tất yếu “thép” khi đề ra các chính sách phát triển.
Vì vậy, cách tốt nhất để học hỏi kinh nghiệm, cả bài học thành công lẫn không
thành công, nên tham chiếu tình hình kinh tế hiện tại của Việt Nam với giai đoạn
có trình độ phát triển tương đồng trước đây của Đức, Nhật, Hàn Quốc.
 |
Ảnh minh họa. Nguồn: Nguyentandung.org |
Trí tuệ của người
Đức
Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc,
nước Đức của Hitler bại trận kéo theo những hậu quả thật khó hình dung: nền
công nghiệp thuộc loại hàng đầu chỉ còn lại 20%, gần phân nửa nhà cửa bị xóa
sạch, 12% dân số tử vong, nạn đói kéo dài ba năm mà cao điểm là vào mùa đông
1946, lạm phát phi mã, trao đổi mua bán chủ yếu là ở các khu chợ trời, trộm cắp
hoành hành khắp nơi.
Bức tranh kinh tế xã hội càng u ám hơn
khi nước Đức bại trận phải chịu những khoản bồi thường chiến tranh vượt quá
tiềm năng và bị chia cắt thành bốn vùng chiếm đóng của phe đồng minh chiến
thắng áp đặt thể chế của riêng mình, điều đó trong thực tế là sự chia cắt đất
nước thành hai miền Đông - Tây với hai chế độ chính trị đối lập.
Vậy mà chỉ 11 năm sau khi thành lập
nước cộng hòa liên bang vào năm 1949, dân tộc Đức đã có những bước dài phát
triển mà các nước phải ngưỡng mộ và nay trở thành nền kinh tế thứ ba của thế
giới, là đầu tàu của châu Âu.
Đúc kết quá trình hồi sinh thần kỳ của
một nước Đức mới, nhiều nhà phân tích cho rằng đó là sự tổng hòa của ba yếu tố
căn bản mang thuộc tính của dân tộc Đức.
Trước hết đó là sự khôn khéo vận dụng
hoàn cảnh lịch sử, vừa nhẫn nhục, vừa âm thầm nỗ lực tìm kiếm con đường đi
riêng. Người Đức đã tận dụng được sự khác biệt của các nước chiếm đóng, đặc
biệt là giữa người Mỹ và người Nga ở hai cực ý thức hệ, để có được sự hỗ trợ
kinh tế qua kế hoạch Marshall của Hoa Kỳ vào năm 1948, dùng các khoản viện trợ
làm vận tốc đầu cho cuộc hồi sinh ngoạn mục, trong điều kiện một cuộc Chiến
tranh lạnh đang manh nha.
Thứ hai, đó là nhờ vào vốn tri thức
quá lớn mà cho dù hàng loạt tài năng xuất chúng trên nhiều lĩnh vực bỏ nước ra
đi trước và sau chiến tranh như Sigmund Freud, Von Braun… nhưng vẫn còn quá
nhiều trí thức - được thuyết phục bởi các chính sách sử dụng chất xám đã không
ngừng chung sức cho một nước Đức hùng cường. Sự hình thành của chủ thuyết kinh
tế thị trường xã hội với ba nhân vật chủ chốt Walter Eucken, Alfred Muller
Armack và Ludwig Erhard – người sau này làm Thủ tướng lèo lái con tàu kinh tế
Đức từ 1963-1966 – là một điển hình sống động.
Kinh tế thị trường xã
hội (Social Market Economy - khác với kinh tế thị trường định hướng XHCN của
Việt Nam) là một nền kinh tế hướng tới ba mục đích vốn là tiền đề phát triển
lành mạnh, đó là (1) phục vụ tự do con người; (2) công bằng và an ninh xã hội
và (3) hòa hợp giữa mọi xu hướng xã hội.
Yếu tố thứ ba đó là một nền dân chủ
pháp trị - pháp quyền được hình thành ngay sau khi thành lập một nước cộng hòa
liên bang, thoát khỏi sự kìm kẹp của lực lượng chiếm đóng.
Tất cả tạo nên một bản hợp ca hoàn
chỉnh: nước Đức thống nhất hai miền Đông Tây sau “cuộc bỏ phiếu bằng đôi chân”.
Nhật bản - bài học về giáo dục và tiết
kiệm
Khi hai trái bom nguyên tử của Mỹ ném
xuống Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8-1945 thì Chiến tranh thế giới thứ 2 đã
thật sự chấm dứt trên một nước Nhật điêu tàn: 3 triệu người chết và mất tích,
40% đô thị bị phá hủy - trong đó những thành phố lớn như Tokyo, Osaka, Nagoya,
Kobe, Kagoshima trở thành bình địa.
Bại trận phải ký hiệp
ước đầu hàng phe đồng minh, Nhật mất tất cả từ các thuộc địa trước đây lẫn chủ
quyền vì là nước bị chiếm đóng. Cũng như người đồng minh Đức, những khoản bồi
thường chiến tranh càng không cho thấy đất nước Phù Tang có thể nhanh chóng
phục hồi nội lực.
Nhưng người dân Nhật không mất ý chí.
Kẻ bại trận ý thức về thân phận của mình nên mang niềm tin và hy vọng về sự
trỗi dậy của đất nước nghèo nàn về tài nguyên. Câu chuyện thần kỳ của Nhật được
biết đến khi chỉ 10 năm sau chiến tranh, kinh tế đã khởi đầu khôi phục, rồi 10
năm tiếp theo là thời kỳ phát triển thần tốc với mức tăng trưởng bình quân 10%.
Năm 1968 Nhật trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới và chỉ chịu nhường vị trí
này cho Trung Quốc khoảng ba năm trở lại đây, do không vượt qua nỗi khắc nghiệt
của cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Có người cho rằng, sự
đi lên từ đống tro tàn của người Nhật là nhờ tinh thần kiên nhẫn vốn có, trong
khi các cường quốc lao vào cuộc chạy đua vũ trang thì người Nhật tập trung vào
phát triển kinh tế, nhẫn nhục trên con đường tìm đến thịnh vượng. Kẻ bại trận ý
thức về thân phận của mình nên nặng lòng về sự trỗi dậy của một đất nước luôn
nuôi dưỡng niềm tin và hy vọng.
Tinh thần tiết kiệm được xem là đặc
tính nổi trội so với nhiều dân tộc khác, sau chiến tranh lại càng đậm nét trong
xã hội. Trẻ con Nhật không được dạy dỗ một cách hoang tưởng về sự giàu có “rừng
vàng biển bạc” mà về sự nghèo khó sau chiến tranh của một đất nước khan hiếm
tài nguyên thiên nhiên nên mọi người đều phải biết tiết kiệm trong mọi hoạt
động đời sống.
Kỳ tích sông Hàn
Cuộc chiến tranh hai miền Nam - Bắc
Triều Tiên kéo dài ba năm, kết thúc vào năm 1953 đã tàn phá Hàn Quốc dữ dội,
nhiều thành thị chỉ còn là đống tro tàn. Vào thời điểm ấy, thu nhập bình quân
đầu người chỉ vào khoảng 67 đô la Mỹ, nhiều vùng nông thôn buộc phải ăn đến
cọng rau ngọn cỏ, phải lên núi kiếm thức ăn. Đó là những tháng năm cùng cực đói
nghèo.
Nhưng người Hàn không đầu hàng số
phận, họ biết tận dụng những khoản viện trợ của cộng đồng quốc tế, trong đó chỉ
riêng viện trợ của Hoa Kỳ đã chiếm đến hơn 30% ngân sách chính phủ. Người Mỹ đã
giúp Hàn Quốc cho đến năm 1957 và họ đã chọn đúng đất nước biết sử dụng hiệu
quả những khoản tiền vào nền công nghiệp tạo sức bật kinh tế sau này.
Sau khi hàng loạt tuyến đường sắt được
xây dựng từ sự giúp đỡ tiền bạc của quốc tế, mạch máu kinh tế của đất nước
thuộc vào hàng nghèo nhất thế giới bắt đầu nhịp đập cho sự phục hồi sau chiến
tranh.
Một nền kinh tế tự chủ được sự đồng
thuận sau khi nhiều ý kiến yêu cầu chính phủ bớt dần sự lệ thuộc vào viện trợ
nước ngoài, theo đó tập trung phát triển công nghiệp và kích thích tiêu dùng
hàng trong nước bằng các giải pháp dứt khoát xem hàng tiêu dùng ngoại nhập là
xa xỉ. Không hô khẩu hiệu, nhưng chính khát vọng xây dựng một đất nước độc lập
tự chủ và cường thịnh đã đưa Hàn Quốc trở thành nền kinh tế thứ ba của châu Á
và thứ 13 thế giới.
Sau 40 năm gây ngạc nhiên bằng tốc độ
tăng trưởng bình quân 7,6%, người Hàn Quốc đã vượt châu Âu với thu nhập bình
quân đầu người hơn 32.000 đô la Mỹ. Sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc chinh
phục người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới.
Người Hàn Quốc đã lấy giáo dục làm bệ
phóng đưa cả dân tộc đi lên. Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Lee Sung Man (Lý
Thừa Vãn) nguyên là một nhà giáo dục, xuất thân là tiến sĩ triết học tại Đại
học Princeton của Mỹ. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh Liên Triều, ông vẫn hết
lòng cho sự nghiệp giáo dục.
Người Hàn đã biết tận dụng tính ưu
việt của nền giáo dục Nhật Bản có bề dày hàng trăm năm. Người Hàn không có khái
niệm làm chủ tập thể nhưng ý thức rõ ràng trước khi làm chủ phải biết làm thuê,
học tính kỷ luật và đạo đức của các xã hội văn minh với các chương trình “dạy
làm người” và “dạy làm ăn”.
Trong khi kinh tế Nhật Bản phát triển
với tốc độ phi mã trong hai thập niên sau chiến tranh để trở thành nền kinh tế
thứ hai thế giới vào đầu thập niên 70 thế kỷ trước, thì Hàn Quốc với xuất phát
điểm thấp hơn cũng đã trở thành con rồng kinh tế vào đầu thập niên 1990.
Có thể xem những bài học của 3 đất nước trên là những nội
dung quan trọng và nên xem xét học hỏi, chia sẻ và vận dụng một cách sáng tạo
kinh nghiệm của các nước này để tìm kiếm các cơ hội phát triển. Thiết nghĩ, trong
những năm trước mắt, nhiệm vụ trọng tâm của Việt Nam là tiến hành tái cấu trúc
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đây là một cơ hội tốt để vừa xem
xét lại những bài học kinh nghiệm, chính sách của Việt Nam trong gần 30 năm đổi
mới, lại vừa tham khảo, vận dụng tốt những bài học kinh nghiệm quốc tế, trong
đó có kinh nghiệm phát triển của Đức, Nhật, Hàn Quốc, với hy vọng tạo nên một
“Kỳ tích sông Hồng” trong tương lai không xa.
Lê Minh